Thứ Ba, 13 tháng 11, 2007

CAO HUYẾT ÁP

Tăng huyết áp tâm thu hay huyết áp tâm trương làm tăng nguy cơ bệnh tim, bệnh thận, làm nặng thêm bệnh lý mạch máu, tổn thương mắt, đột quị (tổn thương não). Những biến chứng của cao huyết áp thường tác động đến cơ quan đích vì tổn thương những cơ quan này là kết quả cuối cùng của tình trạng áp lực máu cao kéo dài. Do đó, chẩn đoán huyết áp cao ở một cá nhân rất quan trọng để cố gắng giữ huyết áp mức bình thường, và bằng cách đó, ngăn ngừa các biến chứng.
Huyết áp được đo như thế nào?
Áp lực máu được đo bằng dụng cụ nhỏ, gọn gọi là huyết áp kế. Huyết áp kế cơ bản bao gồm 1 bơm khí, 1 đồng hồ đo áp lực, và 1 túi hơi. Dụng cụ này ghi nhận huyết áp bằng đơn vị gọi là mmHg (milimet thuỷ ngân)
Túi hơi được bao lấy cánh tay và bơm phồng lên đến 1 áp lực có thể cản trở dòng máu ở động mạch chính (động mạch cánh tay) đi qua cánh tay. Sau đó, xả áp lực trong túi hơi và trên động mạch giảm dần. Khi áp lực giảm dần, nhân viên y tế sẽ nghe bằng ống nghe ngay trên động mạch ở khuỷu tay. Áp lực mà nhân viên y tế nghe mạch lần đầu là huyết áp tâm thu. Khi áp lực túi hơi giảm hơn nữa, áp lực tại đó mạch ngưng là huyết áp tâm trương.
Huyết áp bình thường
Áp lực máu là một con số thay đổi, từ ngưỡng thấp đến cao. Là biến số hàm ý không có một giới hạn chính xác, rõ ràng để phân chia huyết áp bình thường và huyết áp cao.
Ở vài người, trị số huyết áp thấp hơn 140/90 có thể vẫn phù hợp với ngưỡng bình thường. Ví dụ, trong vài trường hợp như bệnh nhân bệnh thận mãn tính bị mất protein qua nước tiểu (tiểu đạm ), huyết áp lý tưởng giữ ở trị số 125/75 hay thấp hơn. Mục đích của việc hạ huyết áp ở những bệnh nhân này là làm chậm tiến triển suy thận. Bệnh nhân tiểu đường cũng vậy, huyết áp nên giữ ở mức <=140/90. Cao huyết áp tâm thu là gì? Nên nhớ là huyết áp tâm thu là trị số áp huyết cao nhất và đại diện cho áp lực tại động mạch khi tim co bóp và bơm máu vào tuần hoàn. Huyết áp tâm thu thường >140mmHg xem như cao, đặc biệt kết hợp huyết áp tâm trương cao (> 90mmHg). Tuy nhiên, cao huyết áp tâm thu đơn thuần được định nghĩa khi áp lực tâm thu >160mmHg với áp lực tâm trương vẫnCao huyết áp áo choàng trắng là gì?
Trị số áp huyết cao đơn độc ở phòng khám có thể là giả vì sự tăng này chỉ mang tính tạm thời. Có lẽ, hiện tượng này do sự lo lắng của bệnh nhân có liên quan đến stress khi thăm khám. Thật vậy, đề nghị được thực hiện thấy 1 trong 4 người có huyết áp cao nhẹ có thể có huyết áp bình thường ngoài phòng khám. Loại cao huyết áp chỉ được ghi nhận tăng tại phòng khám được gọi là cao huyết áp áo choàng trắng. Dĩ nhiên, tên gọi áo choàng trắng tượng trưng cho thầy thuốc, gây lo lắng cho người bệnh, và ngẫu nhiên tăng áp huyết. Một chẩn đoán cao huyết áp áo choàng trắng có thể ngầm hiểu là không quan trọng và nguy hiểm.
Tuy nhiên, cần thận trọng trong lời giải thích ngây ngô của cao huyết áp áo choàng trắng. Huyết áp tăng do stress hay lo lắng do khám bác sĩ không phải luôn luôn là vô hại. Những stress khác trong cuộc sống người bệnh cũng có thể gây tăng huyết áp mà không được ghi đo. Vì vậy, monitor đo áp huyết tại nhà hay ở nhà thuốc có thể giúp đánh giá tần suất và độ ổn định của trị số huyết áp cao. Ngoài ra, những test thích hợp để tìm biến chứng của cao huyết áp có thể giúp đánh giá ý nghĩa của những trị số huyết áp khác nhau.

Cao huyết áp giới hạn là gì?
Cao huyết áp giới hạn được định nghĩa là tình trạng đôi khi cao huyết áp nhẹ >140/90mmHg, đôi lúc lại thấp hơn. Ở người lớn tuổi, huyết áp tâm thu cao hơn một chút, khoảng 140 đến 160mmHg, xem như là huyết áp giới hạn, miễn là huyết áp tâm trương <>140/90mmHg, thì chỉ định thuốc hạ áp thường bắt đầu. Tuy nhiên, nếu huyết áp tâm trương còn ở giới hạn (thường <>85) thì điều trị có thể thực hiện ở vài tình huống (Xem điều trị cao huyết áp).
Nguyên nhân cao huyết áp ?
Hai dạng áp lực máu cao được mô tả: cao huyết áp nguyên phát và thứ phát. Cao huyết áp nguyên phát phổ biến hơn chiếm 95% dân số bị huyết áp cao. Nguyên nhân cao huyết áp nguyên phát chưa rõ (còn gọi là cao huyết áp vô căn). Trong cao huyết áp thứ phát, chiếm 5% trường hợp, huyết áp cao do bất thường đặc hiệu ở một trong những cơ quan, hệ thống cơ thể (Cao huyết áp thứ phát được bàn luận rõ hơn trong những phần dưới đây).
Thật ra, việc dùng muối có thể là một yếu tố quan trọng liên quan đến cao huyết áp nguyên phát trong một số tình huống khác nhau. Vì vậy, dùng muối quá mức có lẽ liên quan đến cao huyết áp, kết hợp với tuổi cao, béo phì, di truyền và suy thận.
Yếu tố di truyền được cho là đóng vai trò nổi bật trong sự tiến triển cao huyết áp vô căn. Tuy nhiên, gien qui định cao huyết áp vẫn chưa được nhận dạng (Gien là phần nhỏ của nhiễm sắc thể sản xuất ra protein qui định đặc điểm cá thể). Những nghiên cứu gần đây về gien tập trung vào yếu tố di truyền ảnh hưởng đến hệ Renin-Angiotensin-Aldosterone. Hệ này giúp điều hòa áp lực máu bằng cách điều chỉnh cân bằng muối và độ co giãn mạch máu.
Khoảng 30% trường hợp cao huyết áp nguyên phát được quy cho yếu tố di truyền. Ví dụ, ở Mỹ, tỉ lệ mới mắc bệnh cao hơn ở người da đen so với người da trắng và Châu Á. Ở những người có ba hoặc mẹ bị cao huyết áp, nguy cơ cao huyết áp gấp 2 lần so với người bình thường. Hiếm hơn, vài rối loạn gien bất thường tác động đến hormone của tuyến thượng thân gây ra cao huyết áp. Cao huyết áp do rối loạn di truyền này ngày nay xem như cao huyết áp thứ phát.
Như đã lưu ý ở trên, nguyên nhân cơ bản của cao huyết áp nguyên phát chưa rõ. Tuy nhiên, người ta tìm thấy đa số người cao huyết áp nguyên phát thường có bất thường đặc hiệu tại động mạch. Nghĩa là họ có kháng lực mạch tăng (độ cứng hay độ đàn hồi kém) ở mạch máu nhỏ xa tim (động mạch ngoại biên). Những mạch máu ngoại biên này chứa Oxy và chất dinh dưỡng cung cấp cho tất cả các mô cơ thể. Các tiểu động mạch nối với hệ thống tĩnh mạch, mang máu trở về tim và phổi, bởi mao mạch ở mô. Nguyên nhân làm cho mạch máu ngoại biên cứng lên chưa rõ. Nhưng, kháng lực ngoại biên tăng cao cũng được nhận thấy ở những người cao huyết áp nguyên phát liên quan đến yếu tố di truyền, béo phì, ít tập thể dục, dùng nhiều muối và người già.
Rượu, thuốc lá và café có thể ảnh hưởng đến huyết áp không?
Những người uống rượu quá nhiều (trên 2 lần /ngày ) có tần suất cao huyết áp tăng 1.5-2 lần. Mối liên quan giữa rượu và huyết áp cao đặc biệt chú ý khi dùng rượu >5lần/ngày. Ngoài ra, còn kết hợp hiện tượng tăng liều. Nói cách khác, càng tiêu thụ nhiều rượu càng liên quan chặt chẽ với cao huyết áp hơn.
Mặc dù hút thuốc làm tăng nguy cơ biến chứng mạch máu (ví dụ bệnh tim và đột quị) ở người đã bị huyết áp cao, mà nó còn làm huyết áp cao hơn nữa. Do đó, hút thuốc nhiều lần có thể tăng huyết áp tạm thời ngay lập tức 5-10mmHg. Tuy nhiên, những người hút thuốc đều đặn lại có huyết áp thấp hơn người không hút thuốc. Nguyên nhân là do nicotine trong thuốc lá làm giảm ngon miệng dẫn đến giảm cân và làm huyết áp thấp hơn.
Trong một nghiên cứu, dùng café 5 cốc/ngày có thể làm tăng nhẹ huyết áp ở người lớn tuổi đã bị huyết áp cao nhưng lại không tăng ở người có huyết áp bình thường. Hơn nữa, kết hợp giữa hút thuốc và uống café ở người có huyết áp cao có thể làm tăng huyết áp hơn là chỉ uống café đơn thuần. Vì vậy, hạn chế dùng café và thuốc lá ở người bị cao huyết áp sẽ có lợi trong việc điều chỉnh huyết áp cao của họ.
Nguyên nhân của cao huyết áp thứ phát?
Như đã lưu ý trước, 5% người huyết áp cao được cho là thứ phát. Nghĩa là huyết áp của những người này cao thứ phát sau một rối loạn cụ thể tại một cơ quan hay mạch máu, ví dụ thận, tuyến thượng thận, hay động mạch chủ.
Cao huyết áp do thận
Bệnh lý tại thận có thể gây cao huyết áp thứ phát. Loại cao huyết áp thứ phát này được gọi là cao huyết áp thận vì nó do tổn thương tại thận gây ra. Một nguyên nhân quan trọng của cao huyết áp thận là hẹp động mạch thận. Ở người trẻ, thường là phụ nữ, hẹp thường dày mạch máu nuôi thận (tăng sản sợi). Ở người già, hẹp thường do xơ vữa mạch máu làm tiểu cầu tụ lại gây tắc mạch.
Làm thế nào mà hẹp động mạch thận gây cao huyết áp ? Ðầu tiên, động mạch thận bị hẹp làm giảm tuần hoàn máu đến thận. Hiện tượng thiếu máu này kích thích thận sản xuất hormone, renin và angiotensin. Những hormone này cùng với aldosterone từ tuyến thượng thận gây co thắt và tăng kháng lực mạch ngoại biên khắp cơ thể, và như đã nói, làm tăng huyết áp.
Cao huyết áp thận thường được nghi ngờ đầu tiên khi huyết áp cao xuât hiện ở người trẻ hay huyết áp cao mới xuất hiện ở người lớn tuổi hơn. Tầm soát hẹp động mạch thận bao gồm chụp cản quang, siêu âm và MRI (chụp cộng hưởng từ) động mạch thận. Mục đích của những test này là xem có giảm lưu lượng máu đến thận không. Nếu test này bất thường hay bác sĩ nghĩ nhiều đến hẹp động mạch thận thì chụp động mạch thận cần thực hiện. Chụp động mạch thận là xét nghiệm cuối cùng thật sự quan sát được động mạch thận hẹp.
Hẹp động mạch thận có thể điều trị bằng cách tái tạo mạch bằng bóng. Trong thủ thuật này, người thực hiện, nhờ siêu âm, luồng 1 ống (catheter) nhỏ dài vào động mạch thận. Tại đó, động mạch thận sẽ được nong rộng ra bằng cách bơm phồng bong bóng ngay chỗ hẹp.Thủ thuật này cải thiện được lưu lượng máu và hạ huyết áp. Ngoài ra nó còn bảo tồn chức năng thận bị suy yếu do thiếu máu. Hiếm khi phẫu thuật cần thiết để mở rộng chỗ hẹp động mạch thận.
Bất cứ loại suy thận mãn nào cũng có thể gây cao huyết áp với cách tương tự trong hẹp động mạch thận. Ðiều quan trọng cần nhớ là không phải chỉ bệnh thận gây cao huyết áp mà cao huyết áp cũng có thể gây bệnh thận. Vì vậy, tất cả bệnh nhân huyết áp cao cần được đánh giá bệnh thận để có thể điều trị đúng đắn.
U tuyến thượng thận
Hai loại u tuyến thượng thận hiếm gặp thường ít gây cao huyết áp (Tuyến thượng thận nằm ngay trên quả thận). Cả 2 dạng u trên đều sản xuất ra quá nhiều hormone gây huyết áp cao. Các u này có thể được chẩn đoán bằng xét nghiệm máu, nước tiểu và chẩn đoán hình ảnh tuyến thượng thận. Ngoài ra, phẫu thuật thường đòi hỏi để cắt bỏ khối u hay tuyến thượng thận, và thường làm giảm được huyết áp.
Một trong những loại u thượng thận trên được gọi là cường Aldosterone nguyên phát vì khối u sản xuất ra lượng lớn hormone aldosterone. Ngoài cao huyết áp, bệnh còn bị mất Kali qua nước tiểu, hậu quả là giảm Kali máu. Vì vậy, cường Aldosterone được nghĩ đến đầu tiên ở người có cao huyết áp kèm Kali máu thấp (Cũng vậy, như đã lưu ý ở trên, vài trường hiếm rối loạn di truyền ảnh hưởng hormone của thận gây cao huyết áp thứ phát).
Một type khác của u thượng thận gây cao huyết áp thứ phát là pheochromocytoma. Khối u này sản xuất quá mức Catecholamines. Chẩn đoán pheochromocytoma được nghĩ đến ở những người có những lúc cao huyết áp đột ngột và hồi quy, tình trạng này liên quan da đỏ ửng, nhịp tim nhanh, và nhiều mồ hôi cộng với triệu chứng của huyết áp cao.
Hẹp động mạch chủ
Hẹp động mạch chủ là một rối loạn di truyền hiếm gặp và là một trong những nguyên nhân thường gặp của cao huyết áp trẻ em. Bệnh này có đặc điểm là hẹp 1 đoạn động mạch chủ, động mạch chính lớn xuất phát từ tim. Ðộng mạch chủ mang máu đến các động mạch nhỏ hơn nuôi dưỡng các cơ quan bao gồm cả thận.
Ðoạn động mạch chủ hẹp thường bị ở chỗ trên động mạch thận, và làm giảm lượng máu nuôi đến thận. Tình trạng thiếu máu này sẽ kích hoạt hệ Renin -Angiotensin-Aldosterone làm tăng huyết áp. Ðiều trị thường là phẫu thuật
sửa chữa đoạn hẹp. Ðôi khi thủ thuật tái tạo bằng bóng (như đã mô tả trong phần hẹp động mạch thận) cũng được dùng để mở rộng chỗ hẹp.
Bệnh nhân cảm thấy như thế nào khi bị huyết áp cao ?
Huyết áp cao đơn giản thường không triệu chứng. Vì vậy cao huyết áp được mệnh danh là "kẻ giết người thầm lặng ". Nói cách khác, bệnh này có thể diễn tiến thầm lặng, không triệu chứng cho đến khi xuất hiện biến chứng chết người. Thật vậy, huyết áp cao không phức tạp có thể tồn tại lặng lẽ nhiều năm thậm chí hàng chục năm. Ðiều này xảy ra khi không có triệu chứng và chỉ được phát hiện qua tầm soát huyết áp định kỳ.
Tuy nhiên, vài người bị cao huyết áp không phức tạp có những triệu chứng kinh nghiệm như: nhức đầu, chóng mặt, thở ngắn và nhìn mờ đi, ruồi bay trước mắt. Sự hiện diện các triệu chứng này có thể chỉ điểm mà người bệnh đi khám bác sĩ nhằm điều trị và dễ dàng trong việc sử dụng thuốc. Tuy nhiên, không phải là không thường xuyên, có người đến bác sĩ đầu tiên vì đã có tổn thương ở cơ quan. Trong nhiều trường hợp, người ta đến khám, được đưa đến bác sĩ hay phòng cấp cứu với suy tim, đột quỵ, suy thận hay giảm thị lực (do tổn thương phần sau của võng mạc). Nhận thức cộng đồng cao hay tầm soát huyết áp thường xuyên có thể phát hiện những bệnh nhân huyết áp cao không được chẩn đoán trước khi có biến chứng.
Khoảng 1% dân số huyết áp cao được chẩn đoán là cao huyết áp nặng ngay lần đầu đến khám (cao huyết áp ác tính). Những bệnh nhân này, huyết áp tâm trương vượt quá 140mmHg. Người bệnh thường bị đau đầu nhiều, ói mửa, triệu chứng về thị giác, chóng mặt, đôi khi suy thận. Cao huyết áp ác tính là một cấp cứu y khoa và đòi hỏi điều trị khẩn cấp nhằm ngăn chặn đột quỵ (tổn thương não).
Như đã lưu ý, cao huyết áp mãn tính có thể dẫn đến lớn tim, suy thận, tổn thương não hay thần kinh và thay đổi võng mạc. Kiểm tra mắt ở bệnh nhân cao huyết áp nặng có thể phát hiện ra hẹp hay xuất huyết ở động mạch nhỏ tại võng mạc, phù gai thị. Từ kiểm tra này, bác sĩ có thể phân độ nặng cao huyết áp dựa trên mức độ tổn thương võng mạc.
Như đã ghi nhận từ
trước, những người cao huyết áp tăng độ cứng, hay kháng lực mạch ngoại biên khắp các mô cơ thể. Kháng lực này tăng làm cho cơ tim làm việc nặng hơn để bơm máu qua mạch máu đó. Tình trạng tăng hoạt động này làm cho tim quá tải dẫn đến rối loạn, thường đầu tiên là lớn tim. Tim to có thể đánh giá bằng X-quang, điện tâm đồ hay chính xác nhất là siêu âm tim. Siêu âm tim đặc biệt có lợi trong việc xác định độ dày tim trái. Tim lớn có lẽ là dấu hiệu báo trước của suy tim, bệnh mạch vành hay rối loạn nhịp. Ðiều trị đúng đắn cao huyết áp và biến chứng của nó có thể khắc phục được những bất thường trên.
Xét nghiệm máu và nước tiểu rất có ích trong việc dò tìm bất thường tại thận ở người cao huyết áp (Nên nhớ là tổn thương ở thận có thể là nguyên nhân và cả hậu quả của cao huyết áp). Ðịnh lượng Creatinine huyết thanh có thể khảo sát được chức năng thận. Nồng độ Creatinine cao bất thường cho thấy có tổn thương chức năng thận. Ngoài ra, sự xuất hiện proteine trong nước tiểu (tiểu đạm) có thể phản ánh tổn thương thận mãn tính do cao huyết áp, ngay khi chức năng thận (qua creatinine máu ) vẫn bình thường. Thật vậy, proteine trong nước tiểu báo hiệu nguy cơ suy giảm chức năng thận nếu huyết áp không được điều chỉnh. Ngay cả lượng nhỏ proteine (microalbuminuria) cũng là dấu hiệu đe doạ suy thận do huyết áp cao không kiểm soát.
Huyết áp cao không kiểm soát có thể dẫn đến tổn thương não hay thần kinh bởi cơn đột quỵ. Ðột quỵ thường do xuất huyết hay huyết khối ở mạch máu nuôi não. Dấu hiệu và
triệu chứng của bệnh nhân (tìm thấy qua khám lâm sàng ) đánh giá tổn thương thần kinh. Một cơn đột quỵ có thể gây ra suy yếu, ù tai, liệt tay hay chân hoặc khó phát ngôn hay thị giác. Nhiều cơn đột quỵ nhỏ có thể gây mất trí nhớ. Phòng ngừa tốt nhất cho biến chứng này hay bất kỳ biến chứng nào là kiểm soát tốt huyết áp.
Cách sống như thế nào có lợi cho điều trị cao huyết áp?
Thay đổi cách sống, ý nhắc đến thay đổi chế độ ăn và luyện tập. Thay đổi này làm hạ huyết áp cũng như cải thiện được đáp ứng của bệnh nhân đối với thuốc. Chế độ ăn kiêng bao gồm hạn chế muối và rượu và giảm cân nếu người bệnh bị béo phì. Hiệp hội tim mạch Mỹ khuyến cáo rằng tiêu thụ muối <6gram/ngày>
Ðiều trị nội khoa cao huyết áp
Mục tiêu điều trị cao huyết áp là gì?
Nên nhớ là cao huyết áp thường tồn tại nhiều năm trước khi xuất hiện biến chứng. Vì vậy có ý kiến là điều trị cao huyết áp sớm trước khi nó gây tổn thương các cơ quan chính của cơ thể. Do đó, chương trình tầm soát và nâng cao ý thức cộng đồng để phát hiện sớm cao huyết áp đơn giản là chìa khoá của điều trị thành công. Ðiểm chính là ngoài điều trị cao huyết áp thành công, bạn có thể giảm được nguy cơ đột quỵ, suy tim, và suy thận.
Mục tiêu của người bệnh cao huyết áp tâm thu và tâm trương kết hợp là giữ huyết áp 140/85 mmHg. Giữ huyết áp thấp hơn, như đã lưu ý là mong muốn của bệnh nhân da đen và bệnh nhân tiểu đường hay suy thận mãn.
Ðiều trị cao huyết áp bắt đầu như thế nào?
Huyết áp hằng định cao hơn 140/85mmHg được điều trị bằng thay đổi cách sống và thuốc. Tuy nhiên, nếu huyết áp tâm trương giữ ở ngưỡng (thường <90mmhg>85mmHg) thì trong vài trường hợp, điều trị nên bắt đầu. Những trường hợp này là huyết áp tâm trương giới hạn kết hợp với tổn thương cơ quan đích, cao huyết áp tâm thu, hay những yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch như tuổi>65, da đen, hút thuốc, tăng lipid máu hay tiểu đường.
Thay đổi lối sống bằng cách ăn lạt (ít muối, giảm độ mặn 70% so với bình thường), tập thể dục điều độ, giảm stress, hạn chế rượu bia….
Thuốc điều trị cụ thể quí vị phải đến khám trực tiếp bác sĩ để chọn lựa thuốc hợp lý và hiệu quả, vì điều trị huyết áp cao ở mỗi cá thể có sự điều chỉnh khác nhau tùy theo mức độ, và tình trạng bệnh, tuổi tác của từng người.
Y học thay thế có dùng trong cao huyết áp?
Y học thay thế, hay còn gọi là y học mở rộng hay y học phụ trội, đặc điểm là sử dụng kỹ thuật không cổ điển trong điều trị. Ví dụ, tự thư giãn tiếp cận vào điều trị cao huyết áp gồm yoga, liên hệ phản hồi sinh học và thiền. Thật ra, những kỹ thuật này có thể làm giảm huyết áp, ít nhất là tạm thời. Tuy nhiên, để giảm được huyết áp duy trì, những phương pháp này đòi hỏi siêng năng tập luyện hàng ngày. Do đó, nó chỉ ứng dụng được một ít ở những bệnh nhân cao huyết áp mà chịu khó. Châm cứu chưa được xem như liệu pháp chuẩn để điều trị cao huyết áp.
Một số loại thảo mộc có chứa thành phần làm giảm áp cũng có hiệu quả trong điều trị cao huyết áp. Hầu hết chúng dùng như thực phẩm và FDA của Mỹ không công nhận những loại cỏ cây đó như thuốc. Do đó, điều trị cao huyết áp bằng thảo dược chưa được đánh giá đúng hiệu quả điều trị một cách khoa học. Ðặc biệt, tác dụng xấu lâu dài vẫn chưa rõ. Hơn nữa, vấn đề chính là các thành phần của nó chưa được chuẩn hoá. Ngoài ra, cơ chế giảm áp của chúng chưa rõ. Do đó, hiện nay điều trị bằng thảo dược không được khuyến cáo dùng.
Những nhóm thuốc hạ áp mới đang được nghiên cứu là gì ?
Thuốc hạ áp thế hệ mới gọi là ức chế vasopeptidase đã được phát triển. Ðộc nhất ở chỗ chúng hoạt động trên 2 hệ thống cùng một lúc. Nó chặn đứng một bộ phận của hệ renin -angiotensin-aldosterone mà hệ này gây co thắt mạch ngoại biên. Nó cũng ức chế hệ điều hòa muối của cơ thể mà hệ này giữ muối. Do đó, thuốc này làm hạ áp bằng cách dãn mạch ngoại biên đồng thời tăng thải muối.
Một trong số thuốc đó hiện đang được nghiên cứu là omapatrilat. Thí nghiệm trên động vật cao huyết áp, thuốc làm giảm huyết áp và có lẽ bảo vệ được cơ quan đích (tim, thận, não) khỏi tổn thương bởi cao huyết áp. Ngoài ra, thuốc làm dãn mạch ngoại biên, tăng lượng máu nuôi đến mô, tăng cường chức năng của tim ở bệnh nhân cao huyết áp có suy tim. Chưa được chấp thuận bởi FDA, omapatrilat vẫn đang được thử nghiệm về độ an toàn và hiệu quả của nó.
BS.PHÙNG HOÀNG ĐẠO

2 nhận xét:

Y Dược 365 nói...

Cám ơn bác sĩ. Những thông tin này rất hữu ích. Mong sẽ nhận được nhiều hơn nữa nhưng chia sẻ khoa học của bác sĩ. Chúc bác sĩ Sức khỏe và công tác tốt

Unknown nói...

Cảm ơn bạn đã chia sẻ, thông tin chia sẻ của bạn rất hữu ích. Nếu có ai đó bị mắc bệnh cao huyết áp hoặc một số bệnh về tim mạch thì mình nghĩ nên có một Máy đo huyết áp Omron tại nhà để có thể theo dõi tình hình sức khỏe của mình chủ động và tốt hơn khi không có thời gian thường xuyên đến các cơ sở y tế.

Máy đo huyết áp tự động nên dễ sử dụng mà độ chính xác lại rất cao.

Tuy nhiên cũng có một vài câu hỏi thường gặp khi sử dụng máy đo huyết áp Omron các bạn có thể tham khảo: Máy đo huyết áp Omron và những điều cần biết !!!

Các bạn có thể xem giá và thông tin của các loại máy này trên thị trường ở địa chỉ: Thiết bị y tế giá rẻ Chuyên bán buôn và bán lẻ thiết bị y tế tại phố phương mai nên giá rất okie nhé !!!