Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2007

VITAMIN D HAY CALCIFEROL

Vitamine D là gì ?
Vitamine D không tan trong nước, nhưng tan trong dung môi hữu cơ, dầu, mỡ, alcool, ether và chloroform.
Một trong những đặc điểm của vitamine D cần được biết đến : nó không phải là một vitamine theo nghĩa đúng, bởi vì quá trình tổng hợp của da bảo đảm được phần lớn nhu cầu của tổ chức. Thực vậy, nếu ergocalciferol (vitamine D2) chỉ có thể đến từ thức ăn, thì tổ chức có khả năng tổng hợp vitmain D từ lớp đáy của thượng bì, từ cholesterol và dưới ảnh hưởng của tia cực tím.
Quá trình tổng hợp của da, và nguồn cung cấp chủ yếu vitamine D cho cơ thể và lệ thuộc vào nhiều yếu tố :
Sắc tố của da.
Vùng thượng bì, nơi quá trình tổng hợp được thực hiện.
Chiều dài của sóng và số lượng tia cực tím được nhận.
Nhiệt độ của da (quá trình chuyển đổi xảy ra thuận tiện ở nhiệt độ (36,50C đến 370C) và tạo điều kiện cho quá trình tổng hợp xảy ra nhanh.
Vitamine D có nguồn gốc bên trong sẽ được hấp thu trực tiếp bởi mạch máu. Ngược lại vitamine D có nguồn gốc bên ngoài, đầu tiên, được hấp thu trong ruột non kèm theo mỡ, sau đó được đưa vào tuần hoàn chung.
Vai trò của Vitamine D ?
Vitamine D chiếm một vị trí rất đặc biệt, dù cho nó có nguồn gốc bên trong từ quá trình tổng hợp của da hay nguồn gốc bên ngoài bởi nhu cầu thức ăn, vì vitamine D vẫn theo một lộ trình. Theo cách của các hormon steroid, vitamine D sẽ tác động bằng cách nối liền các bộ phận thụ cảm, thấm sâu vào nhân tế bào, khởi động cho các quá trình biểu hiện của một vài vitamine D đóng vai trò chủ đạo trong quá trình cốt hóa xương, bằng cách tăng khả năng hấp thu và cố định calci cùng phospho. Phạm vi hoạt động của chuyển hóa phosphocalci rất lớn nhưng trong đó vitamine D vẫn can dự đến tất cả các mức :
Trong ruột, vitamine D tạo điều kiện tăng hấp thu phosphocalci.
Trong xương, nó làm tăng số lượng calci được tiết ra trong máu.
Trong thận, nó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hấp thu phospho.
Tất cả các hoạt động này đều nhằm vào mục đích dùng duy trì lượng phosphocalci có sẵn trong cơ thể để hóa xương, chỉ đại diện một phần vai trò sinh lý của vitamine D.
Thực vậy, nhiều mô chứa các bộ phận thụ cảm đối với vitamine này cũng tham gia vào :
Quá trình tập trung calci trong sữa và tuyến sữa.
Vận chuyển calci về phía phôi thai ở nhau thai.
Sự biệt hóa bạch cầu cần thiết cho nhu cầu đáp ứng miễn dịch.
Tổng hợp interferon, một tác nhân chống lại virus.
Quá trình phát triển của các tế bào da.
Hoạt động của cơ.
Hoạt động kiểm soát, tổng hợp Insulin trong tụy.
Nhiều bộ phận thụ cảm đối với chuyển hóa vitamine D cũng được thấy rõ trong một vài phần của não, nhưng vai trò này vẫn còn nghiên cứu.
Thức ăn nào cung cấp Vitamine D ?
Nguồn gốc bên trong :
Quá trình chuyển dạng các sterol ở da của người dưới tác dụng của tia cực tím mặt trời là nguồn gốc hàng đầu của vitamine D, đồng thời nó được cung cấp một cách bình thường phần lớn nhu cầu của tổ chức.
Đặc tính này rất khó đánh giá chính xác, nhưng thỏa mãn từ 50 đến 70% nhu cầu, tùy theo điều kiện khí hậu, địa lý và xã hội.
Quá trình tổng hợp không giống nhau, mà có thể thay đổi tùy theo tác nhân, chẳng hạn :
Tăng lên nếu chế độ ăn nghèo về calciphospho.
Tổng hợp nhiều hơn ở trẻ em, nhất là trong thời kỳ tăng trưởng nhanh, và ở phụ nữ có thai vào lúc cuối thai kỳ. Ngược lại, nó giảm với tuổi già, ở người 80 tuổi sẽ ít hơn 3 lần so với 20 tuổi.
Người da trắng tăng cao hơn từ 50 đến 100 lần so với người da đen.
Khả năng tổng hợp có thể không đủ do thiếu tiếp xúc với mặt trời hoặc không đủ tia cực tím trong khí quyển, về chất lượng cũng như số lượng (độ cao quá cao, ô nhiễm khí quyển) không mặc áo quần quá kín. Nguy cơ thiếu có thể tồn tại và nhu cầu cung cấp dự phòng rất cần thiết để ngăn ngừa bệnh còi xương.
Nguồn gốc bên ngoài :
Vitamine D có rất ít trong thực phẩm tự nhiên, trừ một vài cá biển béo, nhất là gan của chúng (cá ngừ, cá hồi, cá trích, cá mòi, chình…)
Nhu cầu hàng ngày về Vitamine D là bao nhiêu ?
Nhu cầu được đánh giá là 10mg (400 UI) trong ngày và liều được khuyên từ 20 đến 30 mg (800 đến 1200 UI) trong hai năm đầu tiên sau sinh và vào mùa đông cho đến 5 tuổi.
Ở phụ nữ có thai, vào cuối thai kỳ, người ta khuyên dùng liều từ 10 đến 20mg/ngày (400 đến 800 UI).
Thiếu Vitamine D biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Ở trẻ em : Còi xương xuất hiện trong hai năm đầu sau sinh. Đầu tiên, xương sọ sẽ bị ảnh hưởng nhất là vào tháng thứ 6 (mềm xương vùng chẩm, trán vồ). Từ tháng thứ 6 đến tháng thứ 12, xuất hiện các nốt ở xương sườn và những biến dạng lồng ngực.
Ở người trưởng thành : Tình trạng nhuyễn xương, mất khoáng của xương, thường xảy ra, nó biểu hiện bằng đau cơ và xương, tiến triển nhanh; vị trí đầu tiên là khung chậu và đau tăng lên khi bước đi, rồi sau đó cơn đau tiến đến lồng ngực và cột sống. Đặc biệt, nó còn đi kèm với đau cơ, làm cho bước đi trở nên khó khăn.
Vitamine D giữ vai trò ưu tiên trong điều hòa chuyển hóa calciphospho. Thiếu vitamine D có thể dẫn đến thay đổi tỉ lệ calci và phospho trong máu. Khi calci trong máu tăng sẽ gây ra kích thích sản xuất hormon cận giáp phản ứng.
Bất thường xương sẽ ảnh hưởng làm tất cả cấu trúc của xương dài, đầu xương và thân xương, sớm hơn là phần nối giữa đầu xương và thân xương bị rộng ra. Thêm vào đó là các biến dạng của xương sườn và cột sống.
Những ai dễ bị thiếu Vitamine D ?
Trẻ bú mẹ và trẻ nhỏ (sữa mẹ nghèo vitamine D, sữa bò cũng vậy). Nhu cầu từ 25 đến 30 mg cho mỗi ngày (1000 đến 1200 UI) là liều được khuyên trong năm đầu tiên sau sinh. Từ tháng 3 năm 1992, sữa giàu vitamine D với hàm lượng đã được kiểm soát và cho phép sử dụng ở Pháp.
Thanh niên.
Phụ nữ có thai và cho con bú.
Người già, ở những người này quá trình tổng hợp bên trong chậm lại và giảm tỉ lệ calciferol trong tuần hoàn, thêm vào đó và tiếp xúc với mặt trời không đủ, thực phẩm giảm hay thiếu, đôi khi mất, nhu cầu tăng lên do kém hấp thu ở ruột.
Tất cả những người bị thiếu vitamine D gợi ý do kém hấp thu mạn tính (do cắt dạ dày, thiếu mật, bệnh lý tụy hay thận làm giảm quá trình tổng hợp)
Người uống rượu nhiều.
Người được điều trị bằng những thuốc có tương tác với chuyển hóa của vitamine D thuốc động kinh) hay khả năng hấp thu của nó (dầu paraffin, choletyramin).
Những người bị bất thường di truyền về chuyển hóa vitamine D.
Trường hợp nào nên dùng Vitamine D ?
Điều trị dự phòng cho :
Phụ nữ cuối thai kỳ hay cho con bú và trẻ em dưới hai tuổi.
Người lớn có chế độ ăn thiếu vitamine D hay thiếu ánh mặt trời.
Phụ nữ lúc mãn kinh trở đi và những người đàn ông từ 65 tuổi trở đi (loãng xương, đưa đến xương bị yếu, dễ bị gãy cổ xương đùi, cung cấp thêm vitamine D và calci làm giảm 30% số người bị gãy xương, nhất là các phụ nữ lớn tuổi).
Người có quá trình chuyển hóa bị rối loạn, hoặc do di truyền và hấp thu thuốc.
Điều trị chữa lành :
Vitamine D được sử dụng trong những trường hợp còi xương và nhuyễn xương. Dù cho mọi nguyên nhân (thiếu máu, kém hấp thu, điều trị thuốc hay còi xương đề kháng vitamine) thì. Nguyên tắc chung là tránh kê đơn với liều cao, vì nó không chữa lành bệnh nhanh mà lại gây ngộ độc.
Để cung cấp thêm vitamine D một cách có ích, tốt nhất và chắc chắn hơn cho người lành, thì nên cung cấp một cách tự nhiên : tiếp xúc với mặt trời ở mặt và bàn tay trong ¼ giờ mỗi ngày, khi đó đảm bảo được quá trình tổng hợp bên trong xảy ra nhanh. Mặc khác, do quá trình tổng hợp này giảm ở người già nên nhu cầu cung cấp thêm thật cần thiết cho họ, cũng như ở trẻ em.
Một êkip người Anh cho thấy rằng, trong một vài trường hợp, vitamine D có thể giúp chống ung thư vú, và một số công trình khác gợi ý rằng, nó có thể được sử dụng trong điều trị một vài bệnh ung thư máu.
Cuối cùng, một dẫn xuất của vitamine D được dùng trên da dường như ngày nay là một biện pháp điều trị tốt đối với bệnh vảy nến.
Dùng Vitamine D thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không ?
Dùng với liều cao vitamine D có thể gây ra các phản ứng trầm trọng : chán ăn, buồn nôn, mất cân, đi tiểu tăng lên, mất nước, tăng huyết áp. Những tác dụng này chỉ xuất hiện với liều rất cao (25 đến 27 mg/ngày cho 1kg trọng lượng) và dùng trong nhiều tuần.
Nếu ngộ độc xảy ra, sẽ có sự calci hóa mô : Muốn calci được lắng đọng ở thận, mạch máu, tim, phổi.
Dùng liều cao lúc có thai có thể gây sống thai hay tăng calci máu ở trẻ bú mẹ (chậm phát triển về tâm thần vận động, bất thường về tim mạch). Nguy cơ này đã khiến các nhà nhi khoa và dinh dưỡng giảm liều được khuyên trong những năm 50.
Cuối cùng, vitamine D và những dẫn xuất của chúng hoàn toàn chống chỉ định cho các trường hợp calci máu, calci niệu hay sỏi calci.
BS.PHÙNG HOÀNG ĐẠO (Theo Encyclopédie Médicale)


Không có nhận xét nào: