Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2007

VITAMIN E HAY TOCOPHEROL

Vitamin E là gì ?
Tất cả tocopherol ở nhiệt độ đều có cùng một hình thái : đó là những dịch dầu, nhớt, màu vàng.
Chúng không tan trong nước nhưng rất tan trong mỡ và trong các dung môi của mỡ (ether, aceton, chloroform, methanol, alcool).
Ở dạng tự do, đó là những chất chống ôxy hóa : chúng bị phá hủy bởi ôxy và các ôxy hóa. Thiếu ôxy, chúng ổn định ở nhiệt độ (khi thức ăn được nấu, vitamin E mất khoảng 20%) và môi trường acid, nhưng chúng nhạy cảm với ánh sáng. Do đó cần giữ chúng trong các lọ đậy nắp kín và mờ.
Khả năng hấp thu của nó có được ở phần giữa của ruột non. Liên hệ mật thiết với quá trình tiêu hóa mỡ và cần thiết phải có muối mật cùng men lipase của tụy. Được hấp thu cùng lúc với các chất béo, đến hệ tuần hoàn bằng đường bạch huyết.
Trong huyết tương, hàm lượng alphatocopherol tổng quan với hàm lượng lipid toàn phần, nó được đi kèm với lipoprotein LDL, HDL, thật lý thú để nhận thấy rằng, có tocopherol được liên kết lipoprotien HDl, ở người nam, phần lớn được liên kết với LDL.
Mô bắt giữ tocopherol từ lipoprotein của máu. Tổ chức chứa từ 3,4 đến 8g, với người trưởng thành tỉ lệ này thay đổi tùy theo mô.
Dạng tổng hợp, tức là vitamin E được sản xuất bởi bào chế chứa các đồng phân của 8-steroid. Dạng tự nhiên là một trong những stereoisom này, RRRd-alpha-tocopherol.
Vai trò của Vitamin E ?
Đó là những tác dụng âm tính khi thiếu vitamin E lên khả năng sinh sản và thụ thai, nhưng tầm quan trọng là vai trò của nó vượt quá giới hạn này rất nhiều.
Mặc dù tính đa dạng của các tác dụng này cùng những cơ chế hoạt động của nó vẫn chưa được thiết lập rõ ràng, nhưng đặc tính ôxy hóa của vitamin E đã thể hiện tầm quan trọng trong số các hiện tượng sinh lý khác.
Chống ôxy hóa :
Nó có khả năng chống ôxy hóa và tác động bằng cách ngăn ngừa hay gián đoạn các phản ứng chuỗi, mà chính phản ứng tạo ra các gốc tự do.
Người ta thấy rằng, gốc tự do lại là những phân tử chứa một điện tử độc thân, không ổn định và có thể tấn công bất cứ phân tử khác (Acid béo của màng tế bào, mỡ lưu thông trong máu, protein, vitamin, acid nucleic của gen). Một acid béo bị phá hủy cũng trở thành gốc tự do và tiếp tục phá hủy các tổ chức lân cận.
Đó là quá trình hình thành chuỗi phản ứng. Nó có thể được kết thúc khi tạo thành aldelyse, giống như MDA mà người ta biết rằng, ngày nay định lượng nó trong máu được dùng để đánh giá mức độ của “stress ôxy hóa”. MDA cũng rất độc, vì nó có thể làm hư hỏng gen. Quá trình biến đổi này của gen diễn ra hàng ngày, giáo sư Ames, trường đại học Berkeley, đã tính rằng mỗi ngày các gen của một tế bào chịu khoảng 10.000 thương tổn các gốc tự do này cùng các dẫn xuất của chúng.
Một hệ thống sửa chữa có hiệu quả cho phép thay thế những phần gen bị phá hỏng, nhưng hệ thống này lại bị mã hóa bởi gen và cuối cùng nó cũng bị hư hỏng. Điều này xảy ra với tuổi, các thương tổn khi đó không được sửa chữa mà tích tụ lại. Cũng như vậy, các gen có một chương trình hoạt động của các tế bào, điều đó khiến nó chứa càng ngày càng sai lầm. Đó là một hiện tượng phổ biến, giải thích mức độ suy tàn của các chức năng khác nhau là theo tuổi tác.
- Gen hư hỏng sẽ liên quan đến sự nhân lên của tế bào, một triệu chứng khởi đầu của ung thư. Nó xuất hiện giống như một trong những biểu hiện của hiện tượng bào mòn bởi các gốc tự do.
- Mỡ trong hệ tuần hoàn bị ôxy hóa bởi các gốc tự do hình thành những mảng xơ vữa động mạch.
- Protein của thủy tinh thể bị ôxy hóa sẽ gây ra bệnh đục nhãn mắt.
- Cấu trúc thần kinh bị ôxy hóa sẽ giảm trí tuệ và gây ra bệnh Alzheimer hay bệnh Parkinson.
Những gốc tự do này đến từ quá trình tiếp xúc với chất gây ô nhiễm ở bên ngoài. Tiếp xúc nhiều với mặt trời, uống nhiều rượu, dư thừa calo, thuốc lá, ô nhiễm hóa chất, thuốc, chụp scanner, điều trị bằng tia xạ, ô nhiễm bên trong như : đốt cháy đường và mỡ không hoàn toàn thì 50% năng lượng này đã phung phí trong tổ chức, dưới dạng gốc tự do.
Ngoài ra, những triệu chứng như : nhiễm trùng, dị ứng, viêm mạn tính, hoạt hóa các bạch cầu cũng làm giải phóng ra các gốc tự do. Vì vậy, điều cần thiết đối với chúng ta là duy trì mức độ trung hòa tối đa để loại bỏ stress ôxy hóa này.
Vitamin E, bêta-caroten và vitamin C là ba chất hoàn thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu này. Một phân tử vitamin E được đặt giữa một vài acid béo không no để bảo vệ chúng. Nếu một gốc tự do tấn công vào, thì hoặc là phân tử vitamin E được đặt vào giữa, hoặc là nó chuẩn bị lấy electron tự do. Đặc biệt, khi vitamin E ở ngoài trận đấu, nó sẽ bị loại ra khỏi tổ chức bởi vì bị ôxy hóa, và không thể tiếp tục nhiệm vụ khử nữa.
Kiểm soát tiểu cầu của máu :
Vitamin E không chỉ là một chất chống ôxy hóa mà còn tác động bởi nhiều cơ chế khác nữa, chưa được chứng minh. Nó kiểm soát tính hoạt động của tiểu cầu gây nguy hiểm đối với hệ tim-mạch, và làm giảm sự tăng sinh của các tế bào cơ trơn, đồng thời tấn công vào thành động mạch trong chống xơ vữa động mạch, cũng như sự tăng sinh đối với một vài tế bào ung thư.
Thức ăn nào cung cấp Vitamin E ?
Thức ăn giàu vitamin E nhất là trái cây có dầu, chẳng hạn dầu thực vật và mầm ngũ cốc.Người ta cũng tìm thấy vitamin E trong một vài thực phẩm có nguồn gốc động vật, (gan, trứng, cá béo, chất béo của sữa…) trong rau xanh.
Nguồn cung cấp tự nhiên của vitamin E
Dầu của mầm lúa mì
Margarine
Dầu cọ
Dầu bắp
Dầu đậu nành

Ngũ cốc, bánh mì
Thịt đỏ

Tất cả nguồn giàu vitamin E đều giàu acid béo không no. Điều này không phải ngẫu nhiên mà do vitamin E có mặt để bảo vệ chúng, nhưng càng ăn nhiều acid béo không no, càng cần nhiều vitamin E để bảo vệ khỏi nguy cơ ôxy hóa.
Một nghiên cứu của Đức chứng minh rằng, phần lớn những nguồn giàu vitamin E nhất sẽ tiêu thụ hầu hết hoặc đôi khi nhiều hơn những gì nó mang đến.
Người ta thấy rằng có một giới hạn kỹ thuật để cung cấp thức ăn vitamin E, mà nhu cầu cung cấp thêm hàng ngày dường như cần thiết.
Nhu cầu hàng ngày về Vitamin E là bao nhiêu ?
Hoặc là đơn vị quốc tế cũ (U.I), tương ứng với một 1mg của dạng vitamin E tổng hợp.
Hoặc là đơn vị mới (Alpha TE) tương ứng với 1 mg dạng sinh học hoạt động nhất, tương đương với 1,49 U.I.
Khó xác định liều thường ngày cần thiết, vì nó tùy theo tuổi, giới tính, tình trạng thể lực, các thức ăn cung cấp vào….
Khi ăn nhiều thức ăn có chứa acid béo không no, phải cần cung cấp thêm vitamin E để ổn định chúng, tức là ngăn ngừa quá trình ôxy hóa các acid béo không no này.
Theo nghiên cứu của Val-de-Marme, hầu như không ai có thể nhận đầy đủ lượng vitamin E được khuyên từ thức ăn tùy theo tuổi 40 đến 90% trong số họ nhận ít hơn 2/3.
Tương tự như các vitamin khác và muối khoáng, nhu cầu cung cấp vitamin E cũng được tính để tránh thiếu vitamin. Nó không tương ứng với nhu cầu cung cấp tối ưu cho phép, cũng như những hoạt động sinh hóa cần thiết cho hoạt động của chúng ta diễn ra trong những điều kiện tốt nhất, góp phần phòng ngừa bệnh lý.
Hai nghiên cứu mới đây được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu trường đại học Harvard, một trong 399910 bác sĩ và một trong 87245 y tá, cho thấy rằng: đưa vào 30 đơn vị vitamin E sẽ không đủ, và lượng với cung cấp thêm bằng hoặc trên 100 đơn vị mỗi ngày, dùng ít nhất trong hai năm mới có thể làm giảm tần suất bệnh tim mạch. Điều này cao hơn 6 lần so với nhu cầu cung cấp được khuyên. Một nhu cầu cung cấp thêm như vậy không hủy bỏ nguy cơ mà chỉ làm giảm một nửa.
Hàm lượng vitamin E cung cấp được khuyên
Trẻ còn bú :4 UI/ngày
Trẻ từ 1 đến 3 tuổi :7 UI/ngày
Trẻ từ 4 đến 9 tuổi :10UI/ngày
Trẻ 10 đến 12 tháng :15UI/ngày
Thanh niên, trưởng thành :18UI/ngày
Phụ nữ có thai, cho con bú : 18-25 UI/ngày
Một số thực nghiệm cho thấy:
Liều càng cao tính bảo vệ cao
Vitamin E không là tác nhân bảo vệ duy nhất. Bêta-caroten, vitamin E, selen, magesi và chất lượng của các acid béo được ăn đóng một vai trò quan trọng.
Nếu các yếu tố nguy cơ (tỉ lệ cholesterol tăng cao, cao huyết áp, đái tháo đường, nghiện thuốc lá, được thêm vào thì một số nghiên cứu khác chỉ ra rằng, liều bảo vệ của vitamin E khoảng 800 UI/ngày, nhưng nhu cầu này có thể tăng lên mà không cần yếu tố nguy cơ.
Vào năm 1993, hội nghị về các gốc tự do và thể thao ở Valence, Tây Ban Nha, đã kết luận rằng, tập luyện càng nhiều, tiêu thụ vitamin E càng tăng (phải cần 400 UI/ngày cho những người leo núi).
Trong một lĩnh vực khác, ngăn ngừa ung thư của miệng và thanh quản, Gridley đã kết luận tương tự : chỉ bổ sung 100 UI/ngày để làm giảm một nửa tần suất bị bệnh này.
Một thí dụ khác: Ở những bệnh nhân SIDA, Baum đã kết luận không thể duy trì hàm lượng vitamin E bình thường trong máu mà phải dùng thêm hàng ngày, cao hơn 6 lần nhu cầu cung cấp được khuyên.
Tóm lại, với người lành trong những tình huống đặc biệt (thể thao, tiếp xúc với ánh nắng mặt trời), hay những người có yếu tố nguy cơ, và bệnh nhân thì cần thiết phải bổ sung để bảo đảm cho nhu cầu, bổ sung dạng tự nhiên được ưa thích hơn dạng tổng hợp.
Thiếu Vitamin E biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Vitamin E, giống tất cả các vitamin tan trong mỡ, đi qua nhau thai kém. Vì vậy, em bé mới sinh ra có lượng vitamin E rất thấp, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho vỡ hồng cầu và vàng da sau khi sinh, đặc biệt khi hồng cầu đột ngột bị tiếp xúc với ôxy được mang đến từ phổi. Ở trẻ em đẻ non, tình trạng này càng trầm trọng hơn, nó sẽ gây ra thiếu máu huyết tán, phá hủy hồng cầu, từ 4 đến 6 tuần ở đứa trẻ nhẹ cân lúc sinh ( nhỏ hơn 1,5 kg) nếu không được cung cấp thêm. Ngoài ra, bổ sung vitamin E làm giảm xuống 4 lần nguy cơ chảy máu não ở trẻ đẻ non.
Một vài đứa bé được sinh với bệnh di truyền hay bất thường bẩm sinh sẽ giảm khả năng hấp thu tất cả các vitamin trong dầu, do đó cần phải đưa vào mỗi ngày một lượng lớn các vitamin này.
Biểu hiện của thiếu vitamin E được thể hiện đầu tiên ở (neuron), thần kinh của não và dây thần kinh ngoại biên. Sau đó là mô mỡ. Ở trẻ có hệ thần kinh đang phát triển, và người già sẽ rất dễ bị tổn thương khi thiếu vitamin E. Thiếu vitamin E ở người lớn âm ỉ hàng chục năm mới xuất hiện dấu hiệu thần kinh sau đây :
Tổn thương hệ thần kinh ngoại biên cùng với giảm phản xạ và cảm giác sâu.
Bệnh cơ và yếu cơ.
Rối loạn quá trình phối hợp các động tác hay thất điều.
Tổn thương võng mạc, có thể tiến triển đến viêm võng mạc.

Ở người già, người ta nghi ngờ rằng thiếu vitamin E tạo thuận lợi cho thoái hóa não (bệnh Parkinson, Alzheimer).
Phần lớn người trưởng thành, thiếu vitamin E có thể vẫn âm ỉ trong hàng chục năm, khi đó nó không đủ lượng trong cơ quan để bảo đảm cho đặc tính bảo vệ hiệu quả của màng tế bào và mỡ trong tuần hoàn. Kết quả là xuất hiện đột ngột bệnh tim mạch và một vài bệnh ung thư.
Ngoài ra, vitamin E còn cần thiết để kiểm soát hiện tượng viêm, và dị ứng, cũng như cần cho hoạt động của sức đề kháng miễn dịch. Sự suy yếu này sẽ cạnh tranh với - sự gia tăng tần số bị nhiễm trùng khiến cho hiện tượng viêm và dị ứng nặng thêm.
Những ai dễ bị thiếu Vitamin E ?
Ngoài những tình huống đặc biệt trên, nhu cầu vitamin E tăng trong những trường hợp sau :
Thức ăn giàu acid béo không no, ngạy cảm với ôxy hóa.
Cung cấp nhiều sắt, đó là một chất tiền oxy hóa mà khi dùng chúng phải luôn luôn được kèm với vitamin E.
Thể thao.
Thay đổi độ cao (trên 2000m)
Uống quá nhiều rượu.
Ngộ độc thuốc lá.
Những người tiếp xúc với ô nhiễm (thợ tẩy, cắt tóc, người bảo dưỡng công nhân của công nghiệp xăng dầu…)
Những yếu tố nguy cơ tim mạch (béo, đái tháo đường, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu…)
Yếu tố nguy cơ và tiền sử gia đình bị ung thư.
Bệnh Crohn.
Lọc máu.
SIDA.
Trường hợp nào nên dùng Vitamin E ?
Vitamin E được chỉ định
- Ngăn ngừa và điều trị thiếu máu cũng như tan huyết và chảy máu não ở trẻ sinh non, thiếu cân.
- Ngăn ngừa chứng thoái hóa thần kinh cơ ở trẻ em bị mucoviscidose hay hẹp đường mật (kết hợp với các vitamin tan trong dầu khác).
- Ở người chơi thể thao, tạo thuận lợi cho việc hồi phục hư hỏng cơ và hồi phục sức đề kháng, do gắng sức.
- Ngăn ngừa nhiễm trùng tai, mũi, họng mùa đông, khi bị nhiễm trùng, ngăn ngừa tái phát nhiễm trùng, trong những tình trạng được đi kèm với suy giảm miễn dịch : tuổi, tiếp xúc nhiều với mặt trời, nghiện thuốc lá, đái tháo đường, bệnh gan, suy thận, và ở những người HIV (+) và người bệnh SIDA (bằng cách kết hợp với vitamin C và bêta-caroten).
- Điều trị trứng cá bằng cách kết hợp với bêta-caroten và kẽm.
- Dị ứng, viêm mãn tính và bệnh tự miễn.
- Viêm cấp (bỏng) điều trị phóng xạ, viêm tụy cấp.
- Trong đái đường, để làm chậm sự xuất hiện biến chứng.
- Người hút thuốc lá, nghiện rượu, người tiếp xúc với ô nhiễm nặng.
- Ngăn ngừa và điều trị hỗ trợ một vài loại ung thư, đặc biệt là các ung thư được điều trị với tia xạ và hóa trị liệu.
- Ngăn ngừa và điều trị bổ sung đau thắt ngực, nhồi máu, viêm động mạch, tai biến mạch máu não và các yếu tố nguy cơ của nó. Đặc biệt đi dùng khi quá nhiều cholesterol trong máu, cao huyết áp, đái tháo đường và nghiện thuốc lá.
- Bằng cách kết hợp với liều cao acid béo không no, dưới dạng dầu cá hay dầu ngựa. Dầu cá được sử dụng chống lại sự dư thừa mỡ trong máu. Sau đó nông động mạch vành, để chống lại sự ngưng tụ quá mức của tiểu cầu gây ra cục máu đông, và ngăn ngừa huyết khối, dị ứng, hiện tượng viêm cùng với bệnh tự miễn. Dầu ngựa được sử dụng điều trị chàm, đái tháo đường, xơ cứng rải rác. Nếu những dầu vùng này không được bổ sung vitamin E, nó có thể bị ôxy hóa và tác dụng trở nên âm tích.
- Ngăn ngừa sự thoái hóa của não đi kèm với lão hóa.
- Hỗ trợ trong điều trị co giật, đặc biệt khi trơ với thuốc chống động kinh.
- Trong một vài trường hợp lupus và xơ cứng bì.
- Trong một bệnh hiếm : thoái hóa não ở người trẻ.
Dùng Vitamin E thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không ?

Vitamin E, giống như bêta-caroten, vitamin C và phần lớn các vitamin B là không độc, ngay cả liều cao được dùng kéo dài.
Tuy nhiên, nó sẽ làm giảm kết dính tiểu cầu cần thiết cho sự đông máu và có thể hấp thu vitamin K.
Nó có thể xảy ra ở những bệnh nhân dùng kháng vitamin K hay bị rối loạn đông máu và tạo thuận lợi cho chảy máu.
Để tốt hơn, những người này nên tránh dùng liều cao hơn 200UI/ngày và ngừng dùng vitamin E một vài tuần trước khi phẫu thuật.
BS.PHÙNG HOÀNG ĐẠO (Theo Encyclopédie des vitamines)

Không có nhận xét nào: